Tin suc khoe

 
 
 

Danh y Nguyễn Thế Chuẩn

  • Cập nhật : 08/06/2015

NGUYỄN THẾ CHUẨN  (1794 – 1843)

Hiệu Đức Khê, thụy Thanh Trai. Người làng My Khê, huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương. Là học trò của Phạm Đình Hổ, đi thi nhiều lần nhưng không đậu nên chuyển sang làm nghề thuốc. Ông nổi tiếng là danh y ở phố Hàng Bún Hà Nội. Nhờ trị khỏi bệnh lở loét chân cho vợ Tổng đốc Hà Nội lúc đó là Nguyễn Hữu Tâm, vì vậy được xây dựng sinh từ ở phố Hàng Bún để tạ ơn. Ông được tiến cử và bổ nhiệm làm Thái y viện phó ngự y nhưng ông lấy lý do còn mẹ gia để từ chối. Ông có để lại một tập thơ chữ Hán và một quyển sách xem mạch và nhiều bài thuốc gia truyền.

(Nguồn: st)

Trở về

Xem thêm

    Bài cùng chuyên mục

    • 1

      Danh y Ngyễn Anh Nhân

      Không rõ quê quán. Soạn bộ Y Học Tùng Thư (Hà Nội 1933-1939), Hải Thượng Lãn Ông Toàn Thư (Hà Nội 1942), Nhật Hoa Y Học (Hà Nội 1938), Sách Chữa Bệnh Sởi Và Bệnh Đậu (Hà Nội 1940), Sách Thuốc Gia Truyền Kinh  Nghiệm (Hà Nội 1941), Giản Tiện Phương Kinh Nghiệm Cấp Cứu (Hà Nội 1941).

    • 2

      Danh y Nguyễn Quý

      Quê xã Xuân Dục, tỉnh Hải Dương (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Nguyên là Giám sinh, được bổ làm tri huyện Tiên Minh, sau đó được thăng làm Tham Nghị xứ Yên Quảng, học được y thuật chính truyền, trị bệnh rất giỏi, xem mạch rất tinh tường. Tính tình vui vẻ, năm 70 tuổi vẫn khỏe mạnh. Về tai trị bệnh của ông, được Phạm Đình Hổ thuật lại trong ‘Vũ Trung Tùy Bút’ như sau: “Anh trai ta là Phạm Tôn Kiện, có vợ bị chứng sản hậu đau bụng có hòn cục, cụ Nguyễn Quý bảo sắc Toàn Đương quy 1 lạng, mai thêm 3 chỉ Nhục quế, uống vào khỏi bệnh ngay.

    • 3

      Danh y Nguyễn Xuân Dương

      Hiệu Dưỡng Nguyên. Quê làng Cống Thủy, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Sách y học có: Khoa Chữa mắt (Hà Nội 1939), Sách Thuốc Việt Nam (Hà Nội (1932, 1934, 1935, 1936), Vấn Đề Nghiên Cứu Thuốc Ta (Hà Nội 1935), Khoa Chữa Phổi Và Bệnh Lao (Hà Nội 1940).

    • 4

      Danh y Đinh Nhật Thận

      Tự Tử Úy, hiệu Bạch Mao Am. Người  xã Thanh Liêu, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Năm 1838 đậu tiến sĩ và được bổ nhiệm làm tri phủ, nhưng sau đó vì phạm lỗi nên bị cách chức. Năm 1843 được phục chức như cũ nhưng ông cáo bệnh không nhận. Ông tinh thông nho học và y học. Ông rất giỏi thơ Nôm, đọc sách chỉ xem qua một lần nà nhớ hết, viết văn không cần thảo trước.

    • 5

      Danh y Nguyễn Đại Năng

      Quê ở xã Hiệp Sơn, huyện Kinh Môn (nay thuộc xã Hiệp Sơn – An Lưu, huyện Kịn Môn tỉnh Hải Hưng). Giữ chức Tảnhị ở Thái y viện phụ trách coi Thái y viện. Dùng châm cứu chữa bệnh cho nhiều người, được Hồ Hán Thương rất yêu mến. Ông đã soạn quyển ‘Châm Cứu Tiệp Hiệu Diễn Ca’ bằng thơ Nôm để phổ biến rộng rãi phương pháp châm cứu. Đây là quyển sách châm cứu đầu tiên ở Việt Nam.

    • 6

      Danh y Nguyễn Gia Phan

      Còn gọi là Nguyễn Thế Lịch, hiệu Dưỡng Hiên. Quê ở xã An Khánh (huyện Từ Liêm – Hà Nội ngày nay). Năm 16 tuổi đậu Hương cống, năm 27 tuổi đậu tiến sĩ, làm quan đến chức Tham tri chính sự kiêm Bồi tụng và Binh bộ hữu thị lang đời Lê Chiêu Thống. Được triều đình Tây Sơn giao cho việc chỉ huy phòng chống dịch. Tác phẩm của ông có: ‘Lý Âm Phương Pháp Thông Lục’, ‘Liệu Dịch Phương Pháp Toàn Thư, ‘Hộ Nhi Phương Pháp Tổng Lực’, ‘Tiểu Nhi Khoa’ trị bệnh cho trẻ nhỏ, ‘Thai Sản Điều Lý Phương Pháp’.

    • 7

      Danh y Phạm Văn Bảng

      Sống vào đời Duy Tân (1906 – 1916). Quê xã Nhuận Ốc, phủ  Yên Khánh tỉnh Ninh Bình, giỏi về y thuật, được phong chức Điều hộ. Ông xem mạch rất giỏi. Tương truyền mẹ của tri phủ Yên Khánh bị bệnh đã lâu, các thầy thuốc trong vùng đều cho là sắp chết. Lúc mời ông đến xem mạch, ông nói là không việc gì, bốc cho một thang thuốc uống xong thì khỏi bệnh. Một người bạn thân của ông ở xã Duyên Mậu, phủ Yên Khánh, tinh Ninh Bình mời ông sang ăn gỏi cá, nhờ ông xem mạch thử, ông xem mạch và cho biết nội trong năm sẽ mắc bệnh nặng mà chết. Sau đó đúng như vậy.

    • 8

      Danh y Đỗ Minh Luân

      Quê huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Sống vào cuối đời Tự Đức. Các quan ở Hà Nội mỗi lần bị bệnh đều phải mời ông chữa giúp. Ông soạn bộ ‘Y Lí Toàn Khoa’ gồm hai phần: Phần thứ nhất nói về Âm dương, ngũ hành, ngũ vận lục khí, vinh vệ, lục phủ ngũ tạng, mỗi thứ có một bài phú bằng tiếng Nôm do ông soạn. Phần thứ hai nói về việc quan sát thanh sắc theo bí quyết của Biển Thước, mạch lý, tính dược, bát quái đồ, cổ phương, Phụ khoa, Nhi khoa, điều trị chứng nan y, thời  phương và cách nấu cao.