Tin suc khoe

 
 
 

Danh y Nguyễn Xuân Dương

  • Cập nhật : 08/06/2015

NGUYỄN XUÂN DƯƠNG

Hiệu Dưỡng Nguyên. Quê làng Cống Thủy, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Sách y học có: Khoa Chữa mắt (Hà Nội 1939), Sách Thuốc Việt Nam (Hà Nội (1932, 1934, 1935, 1936), Vấn Đề Nghiên Cứu Thuốc Ta (Hà Nội 1935), Khoa Chữa Phổi Và Bệnh Lao (Hà Nội 1940).

(Nguồn: st)

Trở về

Xem thêm

    Bài cùng chuyên mục

    • 1

      Danh y Đào Công Chính

      Quê ở làng Cõi,huyện Vĩnh Lại, phủ Trung Hồng tỉnh Thượng Hộng (nay là thôn Hội Am, xã Cao Minh, huyện Vĩnh Bảo, tp Hải Phòng). Gia đình toàn là những người thông minh, học cao. Thuở nhỏ ông nổi tiếng là thần đồng, năm 13 tuổi đã đi thi Hương, đậu Hương cống đời Hậu Lê. Kỳ thi Hội, ông đứng thứ nhì, đạt danh hiệu Bảng nhãn, vì vậy, dân làng còn gọi ông là Bảng Cõi. Năm 1673 ông được triều đình cử làm phó sứ  đoàn Hộ sĩ dương sang Trung quốc.

    • 2

      Danh y Lê Trác Du

      Hiệu Hồng Sinh Đường. Không biết quê quán ở đâu. Năm 1858 soạn bộ Nam Thiên Dục Bảo Toàn Thư, gồm 5 quyển, ghi chép các bài thuốc gia truyền Nam và Bắc.

    • 3

      Danh y Đặng Xuân Bảng

      Tự Hy Long, hiệu Thiện Đình.  Người xã Hành Thiện, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Đậu tú tái 1846, 1848, cử nhân 1850, đạu tiến sĩ 1856, giữ chức tuần phủ Hải Dương, vì để mất thành nên bị cách chức. Sau đó được phục hồi hàm Quang lộc, tự Thiếu khanh, lĩnh chức Đốc học tỉnh Nam Định. Ông thích nghiên cứu thiên văn và y học, nhất là dược thảo. Năm 1901 ông soạn quyển  Nam Phương Danh Vật Khảo.

    • 4

      Danh y Ngyễn Anh Nhân

      Không rõ quê quán. Soạn bộ Y Học Tùng Thư (Hà Nội 1933-1939), Hải Thượng Lãn Ông Toàn Thư (Hà Nội 1942), Nhật Hoa Y Học (Hà Nội 1938), Sách Chữa Bệnh Sởi Và Bệnh Đậu (Hà Nội 1940), Sách Thuốc Gia Truyền Kinh  Nghiệm (Hà Nội 1941), Giản Tiện Phương Kinh Nghiệm Cấp Cứu (Hà Nội 1941).

    • 5

      Danh y Nguyễn Quý

      Quê xã Xuân Dục, tỉnh Hải Dương (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Nguyên là Giám sinh, được bổ làm tri huyện Tiên Minh, sau đó được thăng làm Tham Nghị xứ Yên Quảng, học được y thuật chính truyền, trị bệnh rất giỏi, xem mạch rất tinh tường. Tính tình vui vẻ, năm 70 tuổi vẫn khỏe mạnh. Về tai trị bệnh của ông, được Phạm Đình Hổ thuật lại trong ‘Vũ Trung Tùy Bút’ như sau: “Anh trai ta là Phạm Tôn Kiện, có vợ bị chứng sản hậu đau bụng có hòn cục, cụ Nguyễn Quý bảo sắc Toàn Đương quy 1 lạng, mai thêm 3 chỉ Nhục quế, uống vào khỏi bệnh ngay.

    • 6

      Danh y Đinh Nhật Thận

      Tự Tử Úy, hiệu Bạch Mao Am. Người  xã Thanh Liêu, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Năm 1838 đậu tiến sĩ và được bổ nhiệm làm tri phủ, nhưng sau đó vì phạm lỗi nên bị cách chức. Năm 1843 được phục chức như cũ nhưng ông cáo bệnh không nhận. Ông tinh thông nho học và y học. Ông rất giỏi thơ Nôm, đọc sách chỉ xem qua một lần nà nhớ hết, viết văn không cần thảo trước.

    • 7

      Danh y Nguyễn Đại Năng

      Quê ở xã Hiệp Sơn, huyện Kinh Môn (nay thuộc xã Hiệp Sơn – An Lưu, huyện Kịn Môn tỉnh Hải Hưng). Giữ chức Tảnhị ở Thái y viện phụ trách coi Thái y viện. Dùng châm cứu chữa bệnh cho nhiều người, được Hồ Hán Thương rất yêu mến. Ông đã soạn quyển ‘Châm Cứu Tiệp Hiệu Diễn Ca’ bằng thơ Nôm để phổ biến rộng rãi phương pháp châm cứu. Đây là quyển sách châm cứu đầu tiên ở Việt Nam.

    • 8

      Danh y Nguyễn Thế Chuẩn

      Hiệu Đức Khê, thụy Thanh Trai. Người làng My Khê, huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương. Là học trò của Phạm Đình Hổ, đi thi nhiều lần nhưng không đậu nên chuyển sang làm nghề thuốc. Ông nổi tiếng là danh y ở phố Hàng Bún Hà Nội. Nhờ trị khỏi bệnh lở loét chân cho vợ Tổng đốc Hà Nội lúc đó là Nguyễn Hữu Tâm, vì vậy được xây dựng sinh từ ở phố Hàng Bún để tạ ơn. Ông được tiến cử và bổ nhiệm làm Thái y viện phó ngự y nhưng ông lấy lý do còn mẹ gia để từ chối. Ông có để lại một tập thơ chữ Hán và một quyển sách xem mạch và nhiều bài thuốc gia truyền.